1. 挨拶のジェスチャ – Cử chỉ chào hỏi:
Người Nhật Bản khi gặp nhau họ sẽ gập người, cúi đầu khi chào hỏi. Hảnh động này gọi là おじぎ (Ojigi). Ojigi là cử chỉ được dùng khi chào hỏi hoặc cảm ơn, v.v… Góc gập người càng lớn thì được cho là càng kính trọng. Khi gặp người quen ở trên phố, chỉ cần khẽ gật đầu là được.
Ở Nhật Bản, hầu như không ôm, hôn (áp má) khi gặp nhau. Bắt tay đôi khi cũng được sử dụng trong giới kinh doanh nhưng không không phổ biến.
Ở Nhật Bản, cử chỉ chắp tay trước ngực được làm trước khi ăn, nhưng thường không được dùng để chào hỏi người khác.
2.「さようなら」のあいさつ – Lời chào “Sayounara”
Sayounara được biết đến là lời chào tạm biệt trong tiếng Nhật. Tuy nhiên, Sayounara không mấy khi được sử dụng trong thực tế cuộc sống hằng ngày. Sayouara thường được dùng giữa học sinh và giáo viên ở trường học hoặc khi tạm biệt với người mình sẽ không gặp lại nữa.
Trong cuộc sống hằng ngày, khi chào tạm biệt người quen, thông thường họ sẽ nói 「しつれいします」(Shitsureishimasu) trong tình huống trang trọng và nói 「じゃ、また」(ja, mata) đối với những người thân mật.
3.「すみません」を使うとき – Khi sử dụng “Sumimasen”
Sumimasen là từ khi được học qua nó sẽ là từ dùng khi xin lỗi. Tuy nhiên, khi nói cảm ơn, có trường hợp sẽ nói “Sumimasen” thay cho “Arigatou gozaimasu”
Tình huống nói Sumimasen để cảm ơn khi được giúp đỡ hay cụ thể hơn là nhường chỗ trên tàu. Như vậy, trong trường hợp người khác làm việc gì đó cho mình mà mình cảm thấy vì thể đã gây ra bất lợi hay gánh nặng cho họ thì hãy nói “Sumimasen” để vừa đồng thời cảm ơn và xin lỗi. Chỉ riêng Sumimasen cũng có ý nghĩa thể hiện lòng biết ơn.
Việc phân biệt Sumimasen và Arigatou gozaimasu có thể rất khó, nhưng cho dù nói Arigatou gozaimasu thay cho Sumimasen thì cũng không phải là thất lễ. Do đó khi nói cảm ơn, bạn có thể luôn dùng Arigatou gozaimasu.